This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Lá tre: thanh nhiệt, hạ sốt

Lá tre là một dược liệu dùng phổ biến trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Lá tre được thu hái khi phiến lá chưa mở hết, màu xanh mởn. Dược liệu được dùng tươi, có vị ngọt nhạt, hơi cay vào các kinh tâm, phế, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu giảm sốt. Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh có dùng lá tre:

Chữa viêm thanh quản, mất tiếng: Lá tre 12g, trúc nhự 12g, tang bạch bì 12g, thổ bối mẫu 10g, thanh bì 8g, cát cánh 8g, nam tinh chế 6g, gừng 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa cảm sốt, miệng khô khát: Lá tre 16g, kim ngân 16g, cam thảo đất 12g, kinh giới 8g, bạc hà 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Sơ đồ viêm thanh quản.

Chữa viêm phế quản cấp tính: Lá tre 12g, thạch cao 16g, tang bạch bì 12g, mạch môn 12g, sa sâm 12g, thiên môn 12g, hoài sơn 12g, lá hẹ 8g. Sắc uống trong ngày.

Chữa tràn dịch màng phổi: Lá tre 10g, phục linh 12g, thương truật 10g, hồng hoa 8g, đào nhân 8g, cam thảo 6g, nguyên hoa 4g, cam toại 4g, ba kích 4g, đại táo 10 quả. Sắc uống ngày 1 thang (cần theo dõi mạch và huyết áp người bệnh vì bài thuốc có thể gây tiêu chảy).

Chữa viêm bàng quang cấp tính: Lá tre 16g, sinh địa 12g, mộc thông 12g, hoàng cầm 12g, cam thảo 6g, đăng tâm 6g. Sắc uống trong ngày.

Chữa đái ra dưỡng trấp: Lá tre 20g, kim tiền thảo 20g, mía đỏ 20g, giá đỗ xanh 16g, tì giải 16g, ý dĩ 12g, hoạt thạch 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa trẻ em co giật: Lá tre 16g, sinh địa 12g, mạch môn 12g, câu đằng 12g, lá vông 12g, chi tử 10g, cương tàm 8g, bạc hà 8g. Sắc uống trong ngày.

Chữa sởi ở thời kỳ đang mọc: Lá tre 20g, sài đất 16g, sắn dây 12g, cam thảo đất 12g. Sắc uống trong ngày.

Chữa thủy đậu: Lá tre 8g, liên kiều 8g, cát cánh 4g, đạm đậu sị 4g, bạc hà 2g, sơn chi 2g, cam thảo 2g, hành tăm 2 củ. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa loét miệng: Lá tre 16g, thạch cao 20g, sinh địa 16g, chút chít 16g, cam thảo nam 16g, huyền sâm 12g, ngọc trúc 12g, mộc thông 12g. Sắc uống trong ngày.

DS. Nguyễn Thị Hồng

Đậu xanh: Khắc tinh của bệnh tật!

Ngoài tác dụng làm thực phẩm, đậu xanh (ĐX) còn được dùng để làm đẹp và chữa bệnh rất hiệu quả. Loại thực phẩm này đã được sử dụng làm thuốc từ rất lâu đời. Sách nam dược thần hiệu của danh y Tuệ Tĩnh viết: “ĐX không độc, bổ nguyên khí, thanh nhiệt, có thể làm sạch mát nước tiêu, chữa lở loét, làm sáng mắt, trị được nhiều bệnh”…

Món ăn giải độc

ĐX còn gọi là đậu chè, đậu tằm, đậu tắt, lục đậu. Có tên khoa học Vigna radiata (L.) Wilczek var. radiata (Phaseolus radiatus L.), thuộc họ Đậu -Fabaceae.

Cây ĐX thuộc loại cây thảo mọc đứng, cao cỡ 50cm. Lá có 3 lá chét, có lông ở cả hai mặt. Chùm hoa ở nách lá. Hoa màu vàng lục. Quả đậu hình trụ, mảnh, có lông, trong chứa nhiều hạt hình trụ ngắn, gần hình cầu, màu xanh, ruột màu vàng, có mầm ở giữa.

Hạt ĐX có kích thước nhỏ, đường kính khoảng 2 - 2,5mm. Người ta thu hái quả, phơi khô, lấy hạt để làm thực phẩm, chế biến các thức ăn như: cháo, xôi, bánh, chè, xay thành bột làm miến, rang vàng tán bột làm thực phẩm ngũ cốc dinh dưỡng… hoặc ủ cho lên mầm để làm giá ĐX.

đậu xanhĐậu xanh

Theo Đông y, ĐX có vị ngọt, hơi tanh, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trừ phiền nhiệt, ích khí lực, điều hòa ngũ tạng, giảm đau sưng. Thường dùng dưới dạng nấu cháo ăn, hoặc nấu nước uống trong các trường hợp: cảm sốt vào mùa hè, trúng nắng, tiêu khát (khát nước uống nhiều), đái tháo đường, đi tiểu khó, đau bụng do nhiệt, bụng nóng cồn cào, buồn phiền khó chịu, nhức đầu, nôn mửa, phụ nữ có thai bị nôn ọe, không yên.

Ngoài ra, ĐX rất có ích cho người hay bị các loại bệnh nhiệt ngoài da như: mụn nhọt, ghẻ lở, nổi mề đay; người bị cao huyết áp, cholesterol máu cao, viêm gan mãn tính, say rượu; trẻ em bị bệnh quai bị, sởi...

Nước nấu ĐX, cam thảo (ĐX 120g, cam thảo sống 60g), có tác dụng giải độc khi uống nhầm thuốc (thủy ngân, thạch tín...), uống thuốc quá liều (ô đầu, phụ tử…), giải độc do ngộ độc thức ăn, ngộ độc sắn, ngộ độc nấm.

Những món ăn phòngchống các loại bệnh ôn nhiệt vào mùa hè

Cháo ĐX, lá sen: ĐX (để nguyên vỏ) 100g, lá sen tươi 1 cái, gạo tẻ 100g. Lá sen rửa thật sạch, để ráo. ĐX và gạo đãi sạch rồi ninh nhừ thành cháo. Khi cháo chín, dùng lá sen đậy lên trên mặt nồi cháo. Đun lửa nhỏ một thời gian, đến khi cháo có màu xanh nhạt là được.

Hoặc dùng: ĐX (để nguyên vỏ) 100g, lá sen tươi l/4 lá, gạo tẻ 100g. ĐX rửa sạch, cho vào nồi nấu trước. Lá sen rửa sạch, cắt nhỏ. Gạo vo sạch, để ráo. Khi ĐX chín mềm, cho gạo tẻ và lá sen vào nấu nhừ thành cháo loãng. Ngày ăn 2 lần, mỗi lần 1 tô, vào lúc đói bụng.

Món ăn này có tác dụng bổ dưỡng cơ thể, thanh nhiệt, giải độc, tiêu thử trừ phiền, lợi thủy tiêu thũng, giúp giảm mỡ máu, hạ huyết áp và phòng chống béo phì.

Cháo ĐX, sắn dây: bột sắn dây 50g (hoặc củ sắn dây 100g), ĐX (để nguyên vỏ) 100g, gạo tẻ 50g.

Gạo tẻ và ĐX vo sạch, đem ninh nhừ thành cháo. Khi chín, cho bột sắn dây đã hòa nước vào, khuấy đều, đun thêm một lát là được (nếu dùng củ sắn dây thì cho vào cùng lần với gạo và ĐX).

Món ăn này có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thử lợi thủy, sinh tân dịch, giải khát, là món ăn có ích cho sức khỏe trong mùa hè nóng nực, rất tốt cho người bị cao huyết áp, rối loạn lipid máu, thiểu năng tuần hoàn não.

Canh ĐX: nấu canh ĐX ăn rất tốt cho người bị bí tiểu. Trường hợp có đau rát ở đường niệu, có thể dùng 500g giá ĐX giã nát lấy nước, cho thêm đường vào uống.

Khi bị nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn mửa do trúng độc hơi than, có thể nấu canh ĐX để ăn, hoặc dùng bột ĐX 30g, hòa với nước sôi để uống.

Lưu ý: nên dùng ĐX còn nguyên vỏ, vì theo Đông y, vỏ ĐX có vị ngọt, tính mát, không độc, tác dụng thanh nhiệt giải độc tốt hơn thịt hạt đậu, còn giúp sáng mắt, lợi tiểu, trừ phiền.

Dùng ngoài, ĐX được chế biến như sau:

- Chữa giời leo: ĐX rửa sạch, giã nát nhuyễn (hoặc nhai sống), lấy bã đắp vào chỗ đau.

- Bột ĐX, hoạt thạch: bột ĐX 20g, bột hoạt thạch 30g, hai thứ trộn đều, dùng xoa lên những chỗ bị rôm sảy.

- Chữa dị ứng sơn: ĐX sống 100g, rửa thật sạch, ngâm nước trong 12 giờ, lấy ra giã nát thành dạng vữa, cho thêm 30g kim ngân hoa đã nghiền nát, hai thứ trộn đều, đắp vào chỗ bị lở sơn.

Lương y ĐINH CÔNG BẢY

Phật thủ

Phật thủ được đặt ở vị trí trang trọng nhất trên mâm ngũ quả ngày Tết. Phật thủ có nhiều cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Ngoài ý nghĩa tâm linh, phật thủ còn có nhiều tác dụng phòng chữa bệnh.

Phật thủ - Vị thuốc quý 1Quả phật thủ có tác dụng chữa nhiều bệnh.
Theo Đông y, phật thủ vị cay, chua và đắng, tính ấm; vào can vị phế. Có tác dụng lý khí hóa đàm, thư can hòa vị chỉ thống. Dùng cho các trường hợp đau tức vùng liên sườn, vùng thượng vị, buồn nôn, nôn, ho hen phế quản nhiều đờm, khó thở. Liều dùng: 2 - 10g quả khô, dưới dạng nấu, hãm.

Chữa ho đờm, viêm khí quản mạn tính: phật thủ 6g, bán hạ 6g. Sắc uống trong ngày.

Chữa đầy bụng, biếng ăn, nôn mửa: phật thủ 3 - 10g, sắc uống hoặc ngâm rượu.

Rượu phật thủ: phật thủ 30g, rượu trắng 500ml. Ngâm trong 7 - 10 ngày. Mỗi lần uống không quá 40 - 50ml. Dùng cho các trường hợp rối loạn tâm thần ý thức (trầm cảm ức chế...).

Xi-rô phật thủ: phật thủ 15g rửa sạch thái nhỏ, đường trắng lượng thích hợp cho vào trong bình trà, đổ nước sôi hãm uống thay trà. Dùng cho các bệnh nhân đau quặn bụng do đầy hơi trướng bụng.

Cháo phật thủ: phật thủ 10 - 15g, gạo tẻ 60 - 80g. Nấu phật thủ lấy nước bỏ bã, nấu với gạo tẻ, khi cháo được cho thêm đường trắng khuấy đều, đun sôi. Dùng cho các trường hợp sốt ho, đau tức vùng ngực do tràn dịch màng phổi.

Chè phật thủ: phật thủ 10g. Rửa sạch, thái nhỏ, cho nước sôi hãm uống thay nước chè ngày 1 lần. Dùng cho các bệnh nhân viêm loét dạ dày tá tràng, co thắt tâm vị, đầy ợ hơi, buồn nôn, nôn ói.

Chè phật thủ cốc tinh thảo: phật thủ 60g, cốc tinh thảo 15g, chè 3g. Phật thủ, cốc tinh cùng nấu lấy nước, khi đã gần đặc gạn lấy nước vào ấm đã cho chè sẵn. Cho uống ngày 1 ấm, đợt dùng 5 - 7 ngày. Dùng cho các bệnh nhân viêm thị thần kinh, thị lực giảm.

Ruột lợn hầm phật thủ: ruột non lợn 1 đoạn, phật thủ 15 - 30g. Ruột lợn làm sạch thái đoạn, nấu với phật thủ, thêm gia vị thích hợp cho ăn. Dùng cho phụ nữ bị huyết trắng khí hư. Tuần dùng 2 - 3 lần, dùng liền trong 2 - 3 tuần.

Lưu ý: Người âm hư hỏa vượng cần thận trọng khi dùng phật thủ.

TS. Nguyễn Đức Quang

Trị tiêu chảy bằng cây gáo tròn

Gáo tròn là loại cây mọc hoang ở trong rừng thuộc cây thân gỗ có tên khoa học Haldina cordifolia (Roxb) ridsd, thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).

Loại cây này có ở Đông Dương và Ấn Độ..., như Việt Nam, Trung Quốc, Sri Lanka, Philippines, Ấn Độ, Indonesia, Mianma, Thái Lan... cây thân gỗ có kích thước lớn cao tới 35m, đường kính đến 100cm. Gỗ gáo xẻ có bề mặt mịn sạch và đẹp nên được dùng làm đồ mỹ nghệ, nội thất, trang trí... Thân tròn thẳng đứng, vỏ cây khi còn non có màu nâu tro, tròn nhẵn. Khi trưởng thành vỏ màu nâu có sọc thẳng đứng. Cành nhánh dài và phẳng, ngọn hơi rủ, tán hình dù. Lá hình mắt chim hay trái xoan, hình tim ở gốc, có đuôi nhọn dài ở chóp, chiều dài của lá khoảng từ 10 - 30cm, rộng 8 - 20cm, màu lục sẫm và mặt trên lá nhẵn, nhạt màu hơn và mặt dưới lá có lông mềm, lá dai. Hoa vàng, thành đầu hình cầu, đường kính khoảng 18 - 25mm, xếp 1 - 3 cái, có cuống dài 3 - 9cm. Quả nang dài 3 - 4mm, rộng 2mm ở đỉnh, hình nêm, có lông mềm. Hạt có từ 6 - 8, có cánh ở hai đầu, nhọn ở gốc và chia đôi ở đỉnh. Bộ phận dùng làm thuốc là vỏ thân cây và rễ với tên dược liệu là Cortex et Radix Haldinae, Cordifoliae.

Thành phần hóa học chủ yếu ở vỏ thân cây thấy chứa tanin chiếm từ 7,27 - 9,27%, một số sắc tố màu vàng là adinin chiếm 0,09%...

Ở nước ta còn có một cây khác cũng gọi tên gáo, phây vi hoặc thkeou, tên khoa học là Anthocephalus indicus A Rich, họ Cà phê (Rubiaceae). Là loại cây gỗ lớn, mọc thẳng đứng, tán hình chóp, thấy ở vùng Tiên Yên Quảng Ninh vỏ của cây cũng sắc uống làm thuốc trị sốt, ho và làm thuốc bổ. Ở Ấn Độ, người ta cũng dùng nó làm thuốc và làm thuốc bổ. Lá sắc dùng để súc miệng, quả chát dùng trị tiêu chảy, vỏ còn được dùng làm thuốc nhuộm đen rất bền màu.

Đông y cho rằng vỏ gáo tròn có công hiệu hạ sốt, khử khuẩn và làm săn da. Vì vậy nhân dân vẫn sử dụng vỏ cây gáo tròn làm thuốc hạ sốt (có thể sử dụng cả gỗ cây gáo thái mỏng sắc làm thuốc hạ sốt). Tại Ấn Độ người ta đã sử dụng vỏ gáo tròn làm thuốc sát khuẩn các vết thương. Ở Campuchia sử dụng rễ gáo tròn trị tiêu chảy và kiết lỵ. Liều sử dụng trung bình cho dạng thuốc sắc là 10 - 16g/ngày.

Dưới đây xin giới thiệu vài phương tiêu biểu trị bệnh có vị thuốc gáo tròn.

Trị kiết lỵ, tiêu chảy: Rễ cây gáo tròn lấy một nắm to cho vào 1.000ml nước đun sôi kỹ, rồi lấy nước uống trong ngày. Mỗi lần uống chừng 100ml - 150ml.

Trị tiêu chảy: Vỏ cây chòi mòi, cây van núi, cây gáo tròn, mỗi thứ 1 nắm như nhau cho vào hãm lấy nước uống 3 - 4 lần trong ngày, mỗi lần chừng 100ml.

Trị vết thương: Lấy vỏ cây gáo tròn chừng 50 - 60g, cho nước vào nấu lấy nước đặc để rửa các vết thương bị nhiễm khuẩn ngày 2 lần.

Chữa xơ gan cổ trướng: Vỏ gáo 10g, cỏ sữa lá lớn 10g, cỏ xước toàn cây 10g, sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. Uống liền 15 ngày.

BS. Hoàng Xuân Đại

Lá dâu nhuận phế, an thần

Dâu tằm là loài cây được nhân dân ta nuôi trồng từ lâu đời. Bà con thường trồng một vài cây dâu vừa làm hàng rào vừa làm thuốc. Có người cho rằng, cây dâu có tác dụng kỵ tà. Trong quá trình trồng dâu nuôi tằm, các vị lương y ngày xưa đã phát hiện ra cây dâu cho tới 7 vị thuốc quý để chữa bệnh, đó là cành dâu (tang chi), vỏ rễ dâu (tang bạch bì), quả dâu (tang thầm), tầm gửi cây dâu (tang ký sinh), tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu), sâu dâu và đặc biệt là lá dâu (tang diệp) - một vị thuốc được sử dụng rất nhiều trong Đông y.
Lá dâu nhuận phế, an thần 1Lá dâu nhuận phế an thần, tốt cho người bị ho do phế nhiệt, viêm họng, suy nhược thần kinh.

Tang diệp vị ngọt, tính mát vào kinh phế và kinh tâm. Có tác dụng trừ ho, chống cảm cúm, bổ tâm an thần, bổ âm liễm phế, cố biểu, dùng cho những trường hợp phế nhiệt, ho khan, viêm họng, viêm thanh quản, suy nhược thần kinh, đau đầu mất ngủ, tim hồi hộp. Liều dùng 30 - 50g/ngày dược liệu tươi hoặc 15 - 19g/ngày dược liệu khô. Xin giới thiệu một số bài thuốc có sử dụng tang diệp.

Trị ho khan do phế nhiệt: người bệnh ho kéo dài, hơi thở nóng, khô họng, khô niêm mạc, đau rát họng, đờm vàng dính. Dùng một trong các bài:

Bài 1: lá dâu 40g, lá xương sông 20g, mạch môn 16g, cát cánh 16g, mã đề thảo 16g, lá đinh lăng 16g, rau tần dày lá 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: lá dâu 20g, cát căn 16g, lá vông 16g, mơ muối 10g, cam thảo 12g, lá xương sông 20g, rau má 20g. Sắc uống ngày 1 thang.

Trị đau ngực do thiểu năng mạch vành, hồi hộp khó ngủ, lo âu trằn trọc. Dùng bài: lá dâu 40g, lạc tiên 24g, lá vông 20g, lá đinh lăng 24g. Sắc lấy nước đặc chia 2 lần uống vào buổi tối.

Trị cảm thử, hoa mắt chóng mặt, buồn nôn, mồ hôi ra nhiều, người mệt lả, nhịp tim nhanh. Dùng bài: lá dâu 40g, hoàng kỳ 16g, mẫu lệ 16g, bạch biển đậu 16g, đương quy 12g, bạch truật 16g, phòng sâm 12g, sinh khương 4g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Trị viêm phế quản mạn tính: người bệnh ho nặng tiếng, đau ngực, khó thở, rát họng, đờm dính. Dùng bài: lá dâu sao vàng 15g, cát cánh 16g, tía tô 16g, cam thảo 16g, mơ muối 10g, rau tần dày lá 12g, sa sâm 16g, bối mẫu 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Trị suy nhược thần kinh, đau váng đầu, khó ngủ, trí nhớ giảm. Dùng bài: lá dâu 30g, phục thần 10g, hắc táo nhân 16g, đương quy 16g, hà thủ ô 12g, phòng sâm 16g, khởi tử 16g, đại táo 5 quả. Sắc uống ngày 1 thang.

Trị rụng tóc, khô tóc. Dùng bài: lá dâu, cỏ mần trầu mỗi thứ 1 nắm cho vào nồi, đổ vừa nước đun sôi để ấm rồi gội đầu. Dùng thường xuyên sẽ có hiệu quả tốt.

Lương y Trịnh Văn Sỹ

Câu đằng trị tăng huyết áp

Câu đằng (Uncaria spp) tên khác là dây móc câu, dây dang quéo, móc ớ, vuốt, co nam kho (Thái), pước cậu, nam lập câu (Tày), ghím tỉu (Dao).

Bộ phận dùng làm thuốc của cây câu đằng là đoạn thân (mấu cành) có gai ở kẽ lá, cong và cứng như lưỡi câu, thu hái vào mùa hè thu, phơi hoặc sấy khô. Đoạn thân bánh tẻ tốt hơn đoạn già, thường không dài quá 3cm. Gai dài chừng 2 cm. Loại 2 gai có tác dụng tốt hơn loại 1 gai. Không dùng đoạn thân không có gai. Thành phần hóa học của móc câu đằng là alcaloid, tanin, saponosid, coumarin và flavonoid. Dược liệu câu đằng có vị ngọt, chát, tính mát, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, trấn kinh, tản phong, bình can, thường được dùng phối hợp với các vị thuốc khác trong những trường hợp sau:

Chữa tăng huyết áp, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt:

- Câu đằng 10g, xuyên khung 5g, quế chi 3g, cam thảo 2g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100 ml uống làm 2 lần trong ngày.

- Câu đằng 10g, lá dâu 8g, cúc hoa vàng 8g, hạ khô thảo 8g, thảo quyết minh 8g, sao vàng. Sắc uống.

- Câu đằng, phòng phong, phục thần, cúc hoa vàng, đảng sâm, phục linh, trần bì, mạch môn, mỗi thứ 15g; thạch cao 30g; cam thảo 7,5g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 12g dưới dạng nước sắc.

- Câu đằng, thạch quyết minh, ích mẫu, mỗi thứ 12g; hạ khô thảo 10g; đỗ trọng 9g; hoàng cầm 6g. Sắc uống trong ngày.

- Câu đằng 12g, kỷ tử, thạch hộc, sa sâm, hạ khô thảo, mạch môn, mẫu lệ, mỗi thứ 8g; trạch tả, địa cốt bì, cúc hoa, táo nhân, mỗi thứ 6g. Sắc uống.

Chữa sốt cao, chân tay co giật, nghiến răng:

- Câu đằng 10g, kim ngân hoa 9g, cúc hoa vàng 6g, địa long 6g, bạc hà 3. Tất cả sắc với 200ml nước còn 50 ml, uống làm 1 lần trong ngày.

- Câu đằng 10g, thiên ma 10g, bọ cạp 4g, cam thảo 3g, mộc hương 2g, sừng tê giác 2g. Sắc uống.

- Câu đằng 12g, răng lợn 12g, đốt cháy; bọ cạp 12g, bỏ đầu, rút ruột, tẩm rượu, sao giòn; kinh giới 40g; thuyền thoái 8g; phèn phi 8g. Tất cả phơi khô, sấy giòn, tán nhỏ, rây bột mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ xanh. Trẻ em 5-6 tháng tuổi, mỗi lần uống 2 viên; một năm tuổi, mỗi lần 3 viên; 2 năm tuổi mỗi lần 5 viên. Nghiền thuốc với trúc lịch (cây tre non ép lấy nước). Ngày uống 2-3 lần.

- Câu đằng 12g, kim ngân hoa 12g, địa long 10g, liên kiều 10g, bọ cạp 3g. Sắc uống hoặc tán bột uống.

- Câu đằng 10g, cúc hoa vàng 9g, lá dâu tằm 9g, hoàng cầm 9g, tằm vôi 5g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa trúng phong, liệt thần kinh mặt:

- Câu đằng 15g, bạch thược 12g, địa long 12g, trân châu 9g, đại hoàng 9g, trúc lịch 25ml. Sắc uống.

- Câu đằng 12g, dây hà thủ ô tươi 24g. Sắc uống trong ngày.

Chú ý: Khi sắc thuốc gần được, mới cho câu đằng vào để cho sôi 1-2 phút, trào là được.

DS. Hữu Bảo

Boòng boong trị tiêu chảy, bí tiểu

Quả boòng boong còn có tên thạch vĩ dây, dâu da đất... Tên  khoa học Lygodium flescuosum Sw, là một đặc sản của xứ Quảng. Đông y gọi là “hải kim sa” vì cây này có rất nhiều bào tử lóng lánh như những hạt cát vàng (kim sa). Cây mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở bờ rào. Để làm thuốc, cắt toàn cây dùng tươi hay phơi khô, không phải chế biến.

Trong nhân dân dùng toàn cây boòng boong sắc uống chữa chứng tiểu tiện bí, đái dắt, đái buốt, đái ra cát sạn, đại tiện táo bón, chữa chấn thương ứ máu (uống trong, bó ngoài); giã nát đắp các vết thương phần mềm, vết loét, chín mé, mụn rộp loang vòng, còn dùng làm thuốc lợi sữa. Sau đây là một số cách dùng boòng boong làm thuốc.

Chữa tiêu chảy: boòng boong cả cây sắc nước uống.

Chữa ăn uống khó tiêu, bụng trướng đầy do thấp trệ (tỳ thấp trướng mạn): quả boòng boong 30g, bạch truật 8g, cam thảo 2g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa viêm gan: quả boòng boong 15g, nhân trần 30g, xa tiền thảo 20g. Sắc uống ngày một thang.

Đi lị ra máu: dây và lá boòng boong 60-90g, sắc kỹ với nước, chia  2-3 lần uống trong ngày.

Toàn thân phù thũng, bụng trướng như cái trống, nằm không thở được: quả boòng boong 15g, hạt bìm bìm (khiên ngưu tử) 30g, một nửa để sống một nửa sao chín, cam toại 15g. Tất cả nghiền bột mịn, trộn đều. Mỗi lần dùng 8g bột thuốc, sắc với một bát nước, uống vào trước bữa ăn hằng ngày.

Chữa di tinh, mộng tinh: Dây boòng boong đốt tồn tính, nghiền mịn; mỗi lần dùng 4-6g hòa với nước sôi uống.

Chữa tiểu ra sỏi (thạch lâm): quả boòng boong 30g, hoạt thạch 30g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 30g, kim tiền thảo 60g, xa tiền thảo (cỏ mã đề) 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Chữa đái ra dưỡng chấp (cao lâm): quả boòng boong 40g, hoạt thạch 40g, cam thảo 10g. Tất cả tán nhỏ, trộn đều. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g; dùng nước sắc với khoảng 20g mạch môn (củ tóc tiên) hoặc 10g cỏ bấc đèn (đăng tâm thảo) để chiêu thuốc.

BS. Phó Thuần Hương

Dây con kiến giảm sốt

Dây con kiến hay còn gọi là dây râu rồng, đơn tai mèo, hạ quả đằng, người Mường gọi là seng thanh... tên khoa học là Gouania leptostachya DC, thuộc họ táo ta. Là loại dây leo dài, cành non nhẵn, màu nâu sau đó xám nhạt. Lá hình bầu dục như hình tim ở gốc, có mũi nhọn ở đầu, mép khía răng, nhẵn, gân mảnh nổi rõ ở mặt dưới, lá kèm rất dễ rụng; cuống lá hơi có khía rãnh ở mặt trên. Hoa tập trung thành chuỳ thưa ở nách lá hay đầu cành, cao 25cm. Hoa đơn tính, rộng 2 - 3mm; cánh hoa 1mm, màu trắng; nhị 5; bầu 3 ô. Quả khô màu nâu bóng, có 3 cánh mềm, rộng 10 - 12mm. Mùa ra hoa tháng 7 - 9, quả tháng 9 - 12.

Cây mọc hoang, thường gặp ở những nơi dãi nắng, ven đường, ven rừng, ven khe suối, đồi trọc, bãi hoang. Bộ phận dùng làm thuốc là lá và thân, thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần. Bà con một số vùng thường sử dụng dây con kiến giã nhỏ thêm rượu xoa bóp vào những nơi sưng tấy, đau nhức do đòn, chỗ bị thương do ngã rất hiệu nghiệm.

Dây con kiến có tác dụng tiêu viêm, giảm đau.

Một số bài thuốc áp dụng:

- Chữa sưng tấy, tụ máu, đau nhức do chấn thương: Dùng thân hoặc lá dây con kiến giã nhỏ thêm rượu cao độ dùng để xoa bóp, đắp vào vết thương (không xoa vào vết thương chảy máu, hở da). Nếu ngã, va đập người đau ê ẩm thì có thể dùng 16g thân và lá dây con kiến sắc lấy 400ml nước, rồi cho thêm chút rượu vào uống, chia 3 lần uống trong ngày, dùng liền 3 ngày.

- Giảm sốt do viêm họng cảm cúm: Lấy 16g lá dây con kiến giã nhỏ, đắp vào trán, gan bàn tay để giảm sốt rất hiệu quả.

- Chữa bỏng nước sôi (thể nhẹ): Dùng lá và thân dây con kiến giã nát thêm chút nước sôi để nguội vào ngâm, chiết lấy dịch bôi vào vết bỏng liên tục, giúp làm mát, giảm đau vùng thương tổn.

- Trị cảm gió: Dùng 8 - 16g dây con kiến sắc với 2 bát nước còn nửa bát, uống sau bữa ăn trưa. Uống trong hai ngày, kết hợp ăn cháo giải cảm.

Lưu ý: Phụ nữ có thai không áp dụng.

Bác sĩ Nguyễn Anh

Thảo dược làm giảm stress

Stress là một tình trạng cố gắng quá mức chịu đựng của con người, stress làm mất đi sự cân bằng tâm, sinh lý của cơ thể, con người luôn phải “gồng” mình lên, nghĩa là phải tự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh mới. Theo y sinh học phân tử , stress liên quan mật thiết với quá trình perocide hóa ở màng tế bào. Lượng gốc tự do sản sinh nhiều là nguyên nhân của nhiều bệnh trong đó có bệnh do stress.

Thảo dược làm giảm stress 1Nấm linh chi.
Tính thích nghi với ngoại cảnh chính là khả năng của con người chống lại các stress trong cuộc sống. Theo các nhà bảo vệ sức khỏe tâm thần thì những nỗ lực chủ quan, khả năng rèn luyện nhân cách của mỗi cá thể là yếu tố cơ bản trong việc phòng, chống, hạn chế tác động của stress. Tuy nhiên, vai trò của thuốc cũng rất quan trọng bởi những hoạt chất có tác dụng làm tăng tính thích nghi của con người với ngoại cảnh là những chất có khả năng chống ôxy hóa. Tác dụng của dược liệu làm tăng tính thích nghi này còn thể hiện ở khả năng làm tăng độ bền vững của màng tế bào, đẩy mạnh khả năng sử dụng glucoza, làm tăng hoạt độ men glucoza-6-phosphat dehydrogenaza, tăng lượng NADPH là chất cho hydro cần thiết để dập tắt phản ứng, giảm thiểu một cách tích cực sự sản sinh các gốc tự do. Những dược liệu có khả năng chống được stress bao gồm:

Thảo dược làm giảm stress 2Nhân sâm.

Nhân sâm- một vị thuốc quý, có vị ngọt hơi đắng, tính ấm, quy kinh tỳ, phế. Thành phần hóa học chủ yếu gồm hỗn hợp các saponin (ginsenoid), các hợp chất fenolic, dẫn chất polyacetylen, polysaccharide, protein, các chuỗi acid amin, các vitamin B1, B2, các enzym và phytosterol... tất cả tương tác để cùng kiểm soát các chức năng sinh lý của cơ thể nhằm đưa cơ thể trở lại trạng thái hoạt động bình thường. Nhân sâm đại bổ nguyên khí, tăng cường sức lực, giữ cho tinh lực khỏi hao tổn, hư thoát, ích huyết, sinh tân, an thần, giúp tăng trí nhớ. Nhân sâm đứng đầu các loại thuốc bổ, làm tăng sức đề kháng chống lại bệnh tật. Đặc biệt nhân sâm Việt Nam Panaxginsen VN K5 vùng Ngọc Linh - Tây Nguyên có tác dụng bảo vệ màng tế bào, chống ôxy hóa, chống lão hóa, giảm stress rất tốt.

Ngũ gia bì gai hay còn gọi ngũ gia bì hương, cây thường mọc ở kẽ núi đá vùng Hòa Bình, Sơn Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa. Bộ phận dùng là vỏ cây và rễ. Hoạt chất chính là tinh dầu, saponin triterpen, các acid oleanolic... Ngũ gia bì hương vị cay, tính ấm, quy vào hai kinh can, thận, tác dụng làm mạnh cân, cường cốt, trừ phong thấp, tăng cường sức bền bỉ, dẻo dai, giúp cơ thể tăng khả năng thích ứng với ngoại cảnh, chống lại stress.

Thảo dược làm giảm stress 3Hương nhu tía.

Hương nhu tía có ở khắp nơi trên đất nước ta nhất là vùng đồng bằng, trung du. Thành phần hóa học là tinh dầu, trong đó có eugenol, methyleugenol và beta- caryophyllen... Hương nhu tía vị cay, tính ấm, quy vào hai kinh phế, vị. Có tác dụng tán hàn, giải biểu, kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng, lợi niệu; chữa các chứng cảm mạo, cảm nắng, đau đầu, sốt không có mồ hôi, phù thũng, đau bụng đi ngoài. Đặc biệt, theo tài liệu công bố của Ấn Độ, hương nhu tía còn có tác dụng chống stress mạnh hơn cả nhân sâm và ngũ gia bì hương.

Linh chi - thành phần hoạt chất độc đáo của dược liệu này chính là cấu trúc các nguyên tố vi lượng đủ loại, trong đó một số khoáng tố như germanium, vanadium, crom... được khẳng định là nhân tố quan trọng cho nhiều loại phản ứng chống ung thư, dị ứng, lão hóa, xơ vữa, đông máu nội mạch, giúp điều chỉnh dẫn truyền thần kinh, bảo vệ cấu trúc tế bào. Khác với các loại thuốc bổ thông thường, linh chi hữu ích cho cơ thể hơn nhiều qua kiểu đòn bẩy. Nó một mặt thanh lọc cơ thể một cách toàn diện và đồng bộ qua tác dụng lợi tiểu và lợi mật, một mặt kích thích nhiều chuỗi phản ứng sinh hóa trong cơ thể nhờ vai trò xúc tác của khoáng tố vi lượng. Linh chi có tác dụng điều hòa, củng cố, ổn định các chức năng cơ thể, tăng sức đề kháng, tăng sức dẻo dai, bền bỉ trong lao động trí óc và thể lực, cải thiện quá trình chuyển hóa dinh dưỡng và đặc biệt làm tăng tính thích nghi của con người với ngoại cảnh, chống lại stress.

DSCKI. Phạm Hinh

Bài thuốc trị nhức đầu do thận khí suy tổn

Đau nhức đầu là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh, do tác nhân bên ngoài (ngoại cảm) hay bên trong cơ thể (nội thương). Theo YHCT, nếu khi đau khi không và đau âm ỉ là do nội thương; nếu kèm theo triệu chứng: xây xẩm, lưng gối đau mỏi hoặc có di tinh, lưỡi đỏ, mạch tế sác là do thận khí suy tổn. Sau đây là một số bài thuốc trị theo từng thể.

Mẫu lệ (vỏ hàu)

Đau đầu do thận âm hư: Người bệnh có biểu hiện đầu đau trống rỗng, ù tai, hoa mắt chóng mặt, lưng gối yếu mỏi, mất ngủ hay quên, di tinh đới hạ, ngũ tâm phiền nhiệt, ngấy sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, người gầy, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác hoặc huyền tế vô lực. Phép chữa: tư bổ thận. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Kỷ cúc địa hoàng hoàn: thục địa 32g, sơn thù 16g, hoài sơn 16g, đơn bì 12g, phục linh 12g, trạch tả 12g, cúc hoa 12g, kỷ tử 12g. Sắc uống. Nếu lưng gối đau mỏi, thêm đỗ trọng 12g, ngưu tất 10g; nam di tinh, nữ đới hạ, thêm tri mẫu 12g, hoàng bá 10g; ngũ tâm phiền nhiệt, triều nhiệt, ra mồ hôi trộm, thêm địa cốt bì 12g, quy bản 12g, long cốt 16g, mai mực 16g; hoa mắt ù tai, thêm ngũ vị tử 8g, từ thạch 12g, thiên ma 12g, trân châu mẫu 12g.

Bài 2: bột sừng nai 20g, thục địa 20g, mẫu lệ 12g, lá sen 16g, cúc hoa 16g, quy bản 16g, mạch môn 12g, mật ong vừa đủ. Sừng nai cắt khúc, bọc bằng cám nếp ẩm, nướng trên bếp khoảng 40 phút, sao cho sừng bở ra là được, đập vụn, bỏ cám; quy bản cạo hết màng trong, đập vỡ, tẩm giấm thanh 2-3 giờ, sao vàng sẫm. Tán bột, luyện với mật ong làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-15g.

Hoài sơn.

Bài 3: ngọc trúc 24g, bạch thược 24g, câu đằng 12g, sơn thù 10g, long cốt 15g, mẫu lệ 15g, toàn yết 6g, quất lạc 6g. Sắc uống.

Đau đầu do thận dương hư: Người bệnh có biểu hiện đau đầu sợ lạnh, sắc mặt trắng nhợt, lưng gối vô lực, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, đái ít, phù thũng, chất lưỡi nhạt bệu, ít rêu, mạch trầm tế nhược, nhất là mạch xích bất túc. Phép chữa: ôn bổ thận dương. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Thận khí hoàn: thục địa 32g, sơn thù 16g, hoài sơn 16g, đơn bì 12g, phục linh 12g, trạch tả 12g, phụ tử 4g, nhục quế 4g. Sắc uống. Nếu lưng gối yếu mỏi, thêm tục đoạn 12g, cẩu tích 12g; đầu ngón chân ngón tay không ấm, thêm tế tân 3g, can khương 8g; đại tiện lỏng, thêm nhục đậu khấu 12g, ngũ vị tử 8g; phù thũng đái ít, thêm xa tiền tử 12g, ngưu tất 16g; dương nuy, thêm dâm dương hoắc 12g, ba kích 12g.

Bài 2: bột sừng nai 20g, thục địa 20g, mẫu lệ 12g, lá sen 16g, cúc hoa 16g, ba kích 12g, nhục quế 4g, mật ong vừa đủ. Sừng nai cắt khúc, bọc bằng cám nếp ẩm, nướng trên bếp khoảng 40 phút, sao cho sừng bở ra là được, đập vụn, bỏ cám. Tán bột, luyện với mật ong làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-15g.

Bài 3: củ mài sao vàng 20g, khiếm thực sao vàng 20g, dây tơ hồng sao vàng 20g, đậu đen sao chín 40g, cúc hoa 20g, thục địa 40g. Sắc uống.

Lương y Thảo Nguyên

Mã đề nước chữa phù thũng

Mã đề nước còn có tên gọi khác là hẹ nước, vợi. Là cây cỏ thủy sinh, mọc trong ao hồ. Gốc và rễ ngập trong bùn. Thân ngắn hoặc không có thân. Lá mềm hình bầu dục, mọc thành cụm ở gốc. Hoa lưỡng tính mọc trên cuống dài, màu trắng, tím nhạt hoặc trắng đục. Quả hình cầu. Cây thường mọc thành đám ruộng ở các ao hồ nước nông, kênh rạch, bờ suối, ruộng trũng có nước quanh năm. Mã đề nước không chỉ dùng làm rau ăn (thân và lá rửa sạch, luộc qua rồi xào hoặc nấu canh ăn) mà còn là vị thuốc tốt. Bộ phận dùng làm thuốc là lá, thân rễ (thường gọi là củ) bỏ hết rễ, rửa sạch rồi phơi sấy khô. Theo Tây y, mã đề nước có tác dụng giảm mỡ máu, hạ huyết áp, chữa béo phì và tăng huyết áp. Còn trong Đông y vị thuốc từ mã đề nước gọi là trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, vào các kinh thận, bàng quang. Có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi niệu, long đờm dùng chữa các bệnh: phù thũng do thận, ho do viêm họng, giúp mát gan, lợi tiểu...

Chữa phù thũng do thận: Lá trạch tả 30g, thân cây sậy 100g, râu ngô 100g. Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát chia uống hai lần trong ngày. Uống sau bữa ăn trưa và tối. Dùng trong 7-10 ngày. Hoặc trạch tả, bạch phục linh, trư linh, hạt mã đề mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Mã đề nước.

Chữa ho do viêm họng: Lá trạch tả 30g, lá húng chanh 30g, gừng tươi 5g. Sắc khoảng 300ml nước còn 50ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Uống trong 5 ngày.

Giúp mát gan: Trạch tả, bạch phục linh, mẫu đơn bì, sơn thù du, mỗi vị 10g, thục địa và hoài sơn mỗi vị 12g. Tất cả sao vàng, tán bột chế thành viên bằng hạt đỗ xanh. Ngày uống 8 - 10 viên. Uống trong 10 ngày.

Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa mưng mủ): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 15g. Rửa sạch, để ráo, giã nát đắp nơi mụn nhọt sưng đau. Ngày đắp 2 lần. Thực hiện trong 2 ngày.

Chữa chứng hoa mắt, chóng mặt do thiếu máu: Trạch tả 12g, sinh địa 15g, long đởm thảo, sơn chi tử, hoàng cầm, sài hồ, mẫu đơn bì, tri mẫu, cúc hoa mỗi vị 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hoặc trạch tả 15g, bạch truật 6g, cúc hoa 12g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát. uống trong ngày. Dùng trong 7-10 ngày.

Chữa bỏng da thể nhẹ (vết bỏng nhỏ và nông): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 30g, rửa sạch, giã nát đắp hoặc chườm nhẹ nơi có vết bỏng. Ngày làm 2 lần. Bài thuốc này giúp giảm đau và nhanh hồi phục khi bị bỏng.

Giúp hạ sốt do cảm nóng: Lá trạch tả 20g, cỏ mần trầu 25g, lá tre 30g. Các vị thuốc trên đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Uống trong ngày khi thuốc còn ấm. Dùng trong 2 ngày.

Bác sĩ Hoàng Minh

Rau khúc nếp giải cảm trị ho

Rau khúc nếp để làm thuốc thu hái tốt nhất vào mùa đông xuân, tháng giêng trở ra. Thu hái rau non trước khi cây ra hoa, rửa sạch dùng tươi hoặc sấy khô. Trong dân gian, ngoài công dụng làm bánh khúc ăn, thường dùng lá khúc để giải cảm, chữa ho, viêm phế quản.

Rau khúc nếp.

Theo Đông y, rau khúc có vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh phế, tỳ và vị. Có công dụng khu phong tán hàn, hóa đàm chỉ khái, lợi thấp, giải độc. Có công dụng trị cảm mạo phong hàn, ho nhiều đờm, hen suyễn... Dùng ngoài chữa phong chẩn mẩn tịt, tan huyết ứ, chấn thương sưng đau.

Chữa cảm lạnh, sốt, ho: rau khúc khô 20g (hoặc 40g tươi) sắc nước uống trong ngày; Có thể thêm tía tô, kinh giới, mỗi thứ 10g, cùng sắc uống.

Chữa viêm họng, hen suyễn: rau khúc khô 30g, gừng 5g. Sắc uống; Hoặc dùng bài: Rau khúc khô 30g, ma hoàng 6g, khoản đông hoa 9g, hạnh nhân 9g, bạch tiền 9g, sắc uống.

Chữa ho nhiều đờm: rau khúc khô 20g, đường phèn vừa đủ, sắc nước uống trong ngày.

Chữa viêm phế quản mạn tính: Rau khúc khô 30g, khoản đông hoa, lá tì bà, mỗi vị 10g. Sắc uống.

Chữa tăng huyết áp: rau khúc khô 12g, câu đằng 9g, tang ký sinh 9g. Sắc uống trong ngày.

Chữa khí hư bạch đới: rau khúc 15g, cỏ seo gà 15g, đăng tâm thảo 15g, cỏ xước 12g. Sắc uống trong ngày (chú ý: không uống thuốc trong ngày có kinh nguyệt).

Chữa gân cốt đau mỏi, chân và đầu gối sưng thũng: rau khúc khô 30-50g, sắc uống như nước trà hàng ngày.

Thuốc dùng ngoài:

Chữa đau nhức do bệnh gút, thấp khớp, do chấn thương va đập, mụn nhọt: rau khúc (lá và cành non) tươi, rửa sạch, giã nát đắp vào chỗ sưng đau, dùng gạc y tế băng cố định lại.

DS. Đặng Văn Nam

Thuốc chữa bệnh từ cây mía

Ở Việt Nam, nhiều gia đình ngày Tết thường dựng cạnh bàn thờ những cây mía cao, bậm, đỏ, bóng nguyên cả cây còn lá xanh như trang trí đào, quất nhưng có ý nghĩa tâm linh là cây “lộc”. Ngoài ra, mía còn rất có ích đối với sức khỏe mọi người, được mệnh danh “Thang thuốc phục mạch”.

Theo Đông y, mía vị ngọt dưỡng, đại bổ tỳ âm, dưỡng huyết cường gân cốt, an thần trấn kinh tức phong, tả phế nhiệt, lợi yết hầu, hạ đờm hỏa, chi nôn, hòa vị, tiêu phiền nhiệt. Xin giới thiệu một số công dụng chữa bệnh của mía.

Thuốc chữa bệnh từ cây mía 1Cây mía bổ âm dưỡng huyết, thanh phế nhiệt, chỉ nôn là vị thuốc tốt với sức khỏe con người.

Dưỡng âm, nhuận phế: dùng cho người hay ho, nóng rát cổ, giọng nói yếu. Bách hợp 50g, ngâm nước nấu nhừ sau cho nước mía 100ml và nước củ cải 100ml. Uống trước khi đi ngủ.

Chữa chứng phát nóng, miệng khô, cổ ráo, tiểu tiện đỏ sẻn: nhai mía nuốt nước hoặc hòa nước cơm mà uống.

Tư âm, dưỡng vị, chống khát, chống nôn mửa: nước mía 150ml, nước gừng 5 - 10 giọt. Uống từng ngụm một.

Nứt kẽ môi miệng: lấy nước mía bôi ngoài uống trong. Hoặc vỏ mía đốt tồn tính, trộn ít mật ong bôi vào.

Người gầy (hốc hác) da tóc khô: rau má xay 200ml, nước dừa xiêm 1 quả, nước mía 50ml. Có thể thêm mật ong, sữa ong chúa để uống. Uống trước khi đi ngủ.

Chữa người gầy: lấy 1 lít nước mía nấu kỹ với chuối khô (mứt chuối) 200g. Hai thứ nấu sôi, để lửa nhỏ, đập vào 2 quả trứng gà tươi (mới đẻ), ăn nóng. Tuần dùng 3 lần sẽ hiệu quả.

Trẻ em ra mồ hôi trộm: ăn mía, uống nước mía.

Ho, hen do nhiệt, sổ mũi, miệng khô: mía ép giã lấy nước nấu cháo ăn.

Chữa ho gà: mía 3 lóng, rau má 1 nắm, gừng 2 lát. Cho vào 2 bát nước, sắc uống ít một.

Phòng hậu sởi: sắn dây 40g, rau mùi 20g, mía 2 đốt. Dùng 2 bát nước sắc còn 1 bát uống dài ngày trong dịch sởi. Sau sởi: Ép lấy nước mía vỏ đỏ uống.

Giải say rượu: uống nước mía hoặc nhai mía nuốt nước.

Ngộ độc cá nóc: nước mía với nước gừng tươi mỗi thứ một ít (nước mía là chính). Uống để sơ cứu ngay rồi nhanh chóng chuyển bệnh nhân đi bệnh viện cấp cứu kịp thời.

Bs. Phó Thuần Hương

Tác dụng chữa bệnh từ hoa

Là nước nhiệt đới gió mùa với 4 mùa trong năm, nước ta có rất nhiều loài hoa. Hoa không chỉ làm đẹp cho cuộc sống mà đặc biệt, rất nhiều loại còn có tác dụng làm thuốc hữu hiệu, một số loại hoa vẫn được dùng trong đông y như những loại dược liệu quý vì chúng rất hữu ích, an toàn với sức khỏe.

Hoa cúc: có hương thơm dịu nhẹ, chữa được các chứng huyết áp, đau đầu, mờ mắt. Nếu sử dụng chúng hãm với nước chè uống thường xuyên giúp người ta tăng tuổi thọ, lâu bạc râu tóc. Trẻ em ăn uống không tiêu, đầy bụng, hoặc sốt cao có thể dùng hoa cúc hãm với nước sôi uống sẽ mau hết bệnh.

Hoa hồng: có vị ngọt, mùi thơm ngát, tính bình, có công dụng chữa trị các chứng bệnh: ho ra máu, tiểu tiện, lị ra máu bằng cách lấy 10 bông hoa hồng đỏ nấu với một ly đậu đen và một ít đường. Uống 3 lần/ngày trong 3 ngày sẽ khỏi. Để chữa ho cho trẻ nhỏ, dùng cánh hoa hồng trắng chưng với đường phèn, cho trẻ uống ít một sẽ khỏi. Giã chúng với mật ong sẽ chữa được bệnh miệng lưỡi lở loét. Ngoài ra, tinh dầu hoa hồng còn dùng để chữa bệnh đau mắt, đau dạ dày. Hơn nữa, gần đây, các nhà khoa học tìm ra được một dược chất trong tinh dầu hoa hồng có tác dụng ngăn cơn hen phế quản.

Hoa đại (hoa sứ): có mùi thơm nhẹ. Theo Đông y, hoa đại có tác dụng thông phế khí, tiêu đàm, thanh nhiệt, giải độc. Thời xưa, dân gian sử dụng hoa đại phơi khô để dùng làm thuốc chữa ho, kiết lị, đi lỏng. Ngày nay, hoa đại còn được dùng để trị cao huyết áp... Hàng ngày, chỉ cần sử dụng 12 - 20g hoa đại khô, sắc lấy nước uống là có thể trị được bệnh này. Lá hoa đại giã nhỏ đắp vào chỗ đau, chữa chứng bong gân sẽ rất dễ chịu và khỏi dần.

Hoa khế: có vị chua, chát, tính bình có công dụng bổ thận, sinh tinh, nhuận phế tiêu đờm, chữa chứng ho khan, ho có đờm, kiết lị. Nếu bạn bị những chứng bệnh như vậy, lấy hoa khế tẩm nước gừng, sao rồi sắc uống. Lấy 100g hoa khế (loại khế chua), một quả tim lợn 100 - 200g bổ đôi, cho hoa khế vào đầy quả tim rồi buộc lại bằng lạt tre. Lấy thêm hoa khế phủ kín ngoài quả tim, đem đun cách thủy cho tới khi quả tim chín. Ăn tất cả tim, hoa khế một lần vào lúc đói. Sau ba ngày ăn lại một quả như trên. Sáu tháng lại ăn tiếp một đợt hai quả như đợt một, cho đến khi huyết áp xuống bình thường và ổn định mới thôi.

Hoa atisô: chứa protein, lipid, glucid (chủ yếu là inulaza rất tốt cho bệnh nhân đái tháo đường), mangan, sắt, các vitamin A, B1, B2 và vitamin C, giúp ăn ngon, bổ tâm can, lọc máu giải độc. Người ta còn chẻ hoa atisô nhỏ ra, rồi hầm với xương, thịt heo hoặc thịt bò ăn rất tốt.

Hoa mộc miên: (hay còn gọi là hoa gạo) có vị đắng chát, hơi ngọt, tính mát, tác dụng làm se, tiêu viêm, giải độc, sát khuẩn, thông huyết nên đã trở thành dược liệu sử dụng nhiều trong trị liệu. Khi bị ho khạc nhiều đờm do phế nhiệt: lấy 15g hoa gạo, rau diếp cá 15g, tang bạch bì 10g, sắc uống. Trẻ em sốt cao vào mùa hè, có thể lấy 6g hoa gạo, sắc kỹ, chế thêm chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Để chữa mụn nhọt sưng tấy: lấy hoa gạo tươi, giã nát đắp ngày 1 - 2 lần sẽ đỡ đau nhức, chóng khỏi. Chữa tiêu chảy, kiết lị: dùng 20 - 30g hoa gạo thái mỏng, sao vàng, sắc lấy nước uống, ngày 1 thang, chia 2 lần.

BS. Thanh Quy

Gừng

Gừng là quà tặng vô giá của thiên nhiên, ít ai không biết đến gừng, nhất là với các bà nội trợ. Từ lâu các thầy thuốc y học cổ truyền và dân gian đã thấy rằng: tứ mùa ăn gừng có thể phòng được bách bệnh, hay như tục ngữ có câu: “mùa đông ăn củ cải, mùa hạ ăn gừng sẽ không phiền thầy thuốc kê đơn” thực tế gừng không thể chữa được bách bệnh nhưng nó vừa là gia vị không thể thiếu trong cuộc sống vừa là vị thuốc rất tốt chữa các bệnh như cảm mạo, nôn, đầy bụng, đi ngoài lỏng, chân tay lạnh tê bì…

Theo y học cổ truyền, gừng tươi được gọi là sinh khương; gừng khô gọi là can khương; gừng nướng gọi là ổi khương; vỏ gừng gọi là bào khương. Sinh khương có mùi thơm, vị cay tính hơi ấm, vào kinh phế, tỳ vị. Tác dụng tán hàn, phát hãn, giải biểu, ôn trung, chỉ ẩu, hoá đàm, ôn phế, chỉ khái, giải độc, được mệnh danh là thánh dược chỉ ẩu. Thường xuyên ăn gừng có thể chống được bách tà; sinh khương còn có tác dụng điều tiết nhiệt độ cơ thể, mùa đông sinh khương làm ôn ấm huyết dịch làm nhiệt độ cơ thể tăng lên, giúp cơ thể đỡ lạnh; mùa hè sinh khương kích thích lỗ chân lông tán nhiệt, làm hạ nhiệt độ cơ thể xuống khiến cơ thể không sợ nóng.

Phụ nữ trong thời kỳ hành kinh hoặc sau đẻ đều cần gừng để điều hoà nhiệt độ cơ thể; phụ nữ sau đẻ nên cho chút gừng vào thức ăn về sau cơ thể không sợ lạnh, tốt cho đường tiêu hoá. Can khương tân ôn tác dụng hồi dương thông mạch, ôn tỳ hàn. Ổi khương khổ ấm tác dụng ôn tràng vị, ôn huyết phận. Bào khương tính tân lương có tác dụng điều trị phù thũng; phối hợp với tang bạch bì, đông qua bì... điều trị thủy thủng, tiểu ít.

Một số cách dùng gừng chữa bệnh

Cảm lạnh phong hàn nhẹ (biểu hiện sợ lạnh, hắt hơi, sổ mũi, chảy nước mũi trong): 3-4 lát gừng tươi, thêm ít đường uống nóng, ngày uống 3- 4 lần. Sinh khương có tác dụng phát hãn nhẹ nên nếu mồ hôi ra ít thì phối hợp với ma hoàng, quế chi.

Nôn: Sinh khương là vị thuốc chủ yếu trong điều trị chứng nôn do vị hàn hoặc phụ nữ có thai. Nếu do vị nhiệt gây nôn có thể dùng kèm bán hạ chế; hoàng liên.

Giải độc: Sinh khương, tử tô giúp giải độc, dị ứng cua. Sinh khương giảm độc tính của bán hạ, hậu phác.

Hoá đờm, chỉ khái: gừng, đường (lượng bằng 1/2 gừng) đun nước sắc uống từ từ ít một, gừng có tác dụng ôn phế hoá đờm, chỉ khái, đường có tác dụng nhuận phế. Dùng cho trường hợp ho có đờm lâu ngày do hư hàn.

Làm cho ra mồ hôi: 30g tử tô, 9g sinh khương: nấu nước uống tác dụng ra mồ hôi, tán hàn.

Trị gàu, rụng tóc: thường xuyên gội đầu có pha chút gừng có tác dụng trừ gàu, giảm rụng tóc.

Khử mùi hôi, tanh: xát vài lát gừng vài lần vào nách, bàn chân làm giảm mùi hôi nách, hôi chân. Khử mùi tanh, hôi của thức ăn như khi làm thịt ngan, vịt , cá: xát gừng vào làm giảm mùi tanh, hôi.

Giải rượu: nước gừng làm giảm triệu chứng đau đầu, váng đầu do rượu.

Chữa đầy bụng, chậm tiêu, buồn nôn: gừng, hồng táo đun nước uống ngày 2 lần có tác dụng khai vị.

Chữa chứng vị nhiệt: miệng hôi, răng lợi sưng đau, loét, ngứa đau họng: đun nước gừng uống các triệu chứng dần sẽ đỡ.

Lưu ý: gừng có tính tân ôn nên không hợp dùng lượng nhiều, dùng dài ngày nhất là mùa thu vì nó có thể tổn thương phế khí.

TS. Nguyễn Thị Tâm Thuận

Dứa dại hỗ trợ trị sỏi thận

Cây dứa dại còn có tên là dứa gỗ, dứa gai, dứa núi. Là loại cây nhỏ, phân nhánh ở ngọn, cao 2-4m, với rất nhiều rễ phụ. Lá ở ngọn các nhánh, hình dải, dài 1-2m, trên gân chính và 2 bên mép có gai nhọn. Bông mo đực ở ngọn cây, thõng xuống, màu trắng, rời nhau. Hoa rất thơm. Cụm quả tạo thành một khối hình trứng dài 16-22cm, có cuống màu da cam, gồm những quả hạch có góc, xẻ thành nhiều ô.

Cây mọc hoang ở nhiều nơi, thường được trồng làm hàng rào, có nơi để lấy lá dệt chiếu và túi. Người dân nhiều nơi còn dùng đọt non, phần gốc trắng, mềm hoặc cuống lá làm rau ăn và lấy hạt từ quả để ăn. Toàn cây được dùng làm thuốc. Rễ và lá thu hái quanh năm đem về thái mỏng, phơi hoặc sấy khô dùng dần. Thu hái quả vào mùa đông dùng tươi hoặc phơi khô.

Dứa dại phối hợp với cỏ bợ, ngải cứu hỗ trợ điều trị sỏi thận.

Một số đơn thuốc chữa bệnh từ dứa dại:

Chữa cảm lạnh: Lá dứa dại 20 - 30g; gừng, hành, tỏi mỗi vị 20g. Tất cả sắc với 2 bát nước̉ lấy 1/2 bát, uống 1 lần lúc nóng. Uống xong, đắp chăn kín cho ra mồ hôi.

Chữa cảm nóng, nhức đầu: Lá dứa dại 20 - 30g, rau má 40g, cỏ mần trầu 20g, lá tre 20g, lá sắn dây 20g, lá duối 20g. Tất cả sắc với 600ml nước để lấy 200ml. Ngày uống 2 lần.

Hỗ trợ điều trị sỏi thận: Đọt dứa dại 120g, ngải cứu tươi 20g, cỏ bợ 30g, lá phèn đen 10g. Rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt uống ngày 1 lần. Uống 5-7 ngày. Hoặc: Quả dứa dại, rửa sạch, ngâm cho mềm, để ráo nước bổ nhỏ, thái phiến, sao vàng, cùng với kim tiền thảo, mỗi vị 20g, sắc uống, ngày một thang.

Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Dùng quả dứa dại khô 20-30g, thái lát mỏng, sắc hoặc hãm uống thay trà trong ngày.

Chữa viêm đường tiết niệu: Rễ dứa dại 16g, trạch tả 12g, kim ngân hoa 16g, cam thảo nam 12g. Tất cả sắc với 4 bát nước để lấy 1 bát rưỡi. Chia 2 lần, uống trước bữa ăn. Dùng 7 - 10 ngày.

Chấn thương bầm tím: Dùng rễ dứa dại, giã nát đắp vào chỗ bị thương rồi băng cố định lại sau 3 giờ thay băng, ngày 1 lần.

Hỗ trợ điều trị viêm gan mạn tính: Quả dứa dại 100g, cây chó đẻ răng cưa 50g, sắc uống ngày một thang.

Lương y Nguyễn Văn Quyết

Thực phẩm giúp hạ huyết áp

Tăng huyết áp là bệnh rất thường gặp ở người trung niên, người cao tuổi và đang ngày càng có xu hướng trẻ hoá và gia tăng, được xem là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Việc kiểm soát tốt huyết áp bằng thuốc và không dùng thuốc mà trong đó dinh dưỡng có vai trò quan trọng làm giảm đột quỵ 35 - 40%, nhồi máu cơ tim 20 - 25% và suy tim hơn 50%. Vì vậy, chúng ta cũng cần chú ý đến những thực phẩm có lợi với bệnh tăng huyết áp.

Một số loại rau quả và gia vị có chứa nhiều chất xơ, kali, calcium và magnesium, là những thứ có lợi trong việc kiểm soát huyết áp. Tùy từng loại, chúng còn có những chất đặc biệt giúp làm giảm huyết áp. Hãy kết hợp những thực phẩm này trong bữa ăn, cũng có thể thay đổi khẩu vị bằng cách chế biến thành nước ép rau quả.

Một bữa ăn nhiều chất xơ rất có hiệu quả trong việc dự phòng và điều trị nhiều dạng bệnh tim mạch trong đó có tăng huyết áp. Các loại thực phẩmnhư rau, yến mạch, pectin trong táo, đậu đỗ, củ gừng, bột hạt ca-ri… có tác dụng cung cấp chất xơ cho cơ thể. Các chất xơ này, ngoài lợi ích chống tăng huyết áp, còn giúp giảm cân, chúng gắn với các kim loại nặng có hại trong cơ thể để thải ra ngoài.

Cần tây: Y học cổ truyền đã sử dụng cần tây trong điều trị tăng huyết áp từ xa xưa. Có một số bằng chứng thực nghiệm cho thấy cần tây rất hữu dụng trong việc làm giảm huyết áp, qua thử nghiệm bằng cách tiêm dịch chiết xuất cần tây vào động vật đã thấy tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Ở người, hiệu quả thấy được trên huyết áp sau một thời gian sử dụng ít nhất bốn cây cần tây mỗi ngày. Hãy thử với cần tây xào thịt bò, nước ép cần tây.

Tỏi: Tỏi là một thứ thuốc diệu kỳ cho tim. Nó có tác dụng có lợi trên hệ tim mạch bao gồm huyết áp. Tỏi có công dụng hạ mỡ máu và hạ huyết áp. Hằng ngày nếu kiên trì ăn đều đặn 2 tép tỏi sống hoặc đã ngâm dấm, hay uống 5ml dấm ngâm tỏi thì có thể duy trì huyết áp ổn định ở mức bình thường. Tỏi tương đối dễ sử dụng: cho vào đồ nấu, nước chấm và đặc biệt là tỏi ngâm giấm.

Thực phẩm giúp hạ huyết áp 1Thực phẩm giúp hạ huyết áp 2

Tỏi, Cà chua - Những thực phẩm giúp hạ huyết áp.

Hành: Hành rất có lợi đối với người tăng huyết áp. Hãy dùng hành với các món: hành ngâm dầu ăn, hành xào cần tây… Hiệu quả trên huyết áp của hành cũng dễ hiểu bởi nó là “anh em họ” với tỏi.

Đậu Hà Lan và đậu xanh: Là hai loại thực phẩm rất có lợi cho người tăng huyết áp. Hằng ngày nên dùng giá đậu Hà Lan 1 nắm rửa sạch rồi ép lấy nước uống, hoặc dùng làm rau ăn thường xuyên. Dân gian thường dùng đậu xanh hầm với hải đới ăn; hoặc đậu xanh và vừng đen sao thơm, tán bột, ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 50g để phòng chống tăng huyết áp.

Cà rốt: Cà rốt có nhiều chất xơ và một phức hợp các chất có lợi cho huyết áp. Nếu uống 100ml nước ép cà rốt tươi, hai lần mỗi ngày trong 30 ngày sẽ thấy được tác dụng làm hạ huyết áp của nó. Ngoài ra, trong cà rốt còn có một chất bổ mắt là beta-caroten.

Cà chua: Có công dụng thanh nhiệt, giải độc, làm mát máu và hạ áp. Nó là thực phẩm rất giàu vitamin C và P. Nếu ăn thường xuyên mỗi ngày 1- 2 quả cà chua sống, bạn sẽ có khả năng phòng chống tăng huyết áp, đặc biệt là khi có biến chứng xuất huyết đáy mắt. Cà chua có thể làm được nhiều món, nhưng người bị tăng huyết áp không nên dùng xốt cà chua (cà chua hộp) vì có nhiều muối.

Gia vị hỗn hợp: Gia vị hỗn hợp như thì là, hạt thì là, kinh giới (họ bạc hà), tiêu đen, húng quế, gừng,… có chứa những hoạt chất có lợi cho huyết áp. Tùy món ăn, hãy chế biến chúng cho hợp khẩu vị.

BS. Nguyễn Hoàng Quân