Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Tác dụng điều tiết hai chiều của thảo dược

Đông y đã sớm nhận biết về tác dụng tương phản của thuốc. Người xưa gọi đó là “nhất vật nhị khí”, nghĩa là cùng một vị thuốc (nhất vật) mà có thể tạo ra hai khí khác nhau (nhị khí). Mặc dù vậy, cho đến nay hiểu biết về cơ chế của nguyên lý điều tiết hai chiều vẫn còn rất ít. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, tác dụng điều tiết hai chiều của thảo dược có thể liên quan đến một số nhân tố như sau:

Trong thuốc có một số thành phần đối kháng

Trong mỗi một vị thuốc thảo dược, có rất nhiều thành phần hóa học khác nhau. Khi trong số những thành phần đó có một số thành phần với tác dụng dược lý tương phản, thì vị thuốc có thể tạo ra những tác dụng điều tiết trái chiều với nhau.

Thí dụ: Trong nhân sâm có nhiều loại saponin khác nhau. Trong đó, saponin loại Rb có tác dụng trấn tĩnh, ức chế thần kinh, còn saponin loại Rg lại có tác dụng kích thích, hưng phấn thần kinh. Do đó, nhân sâm vừa có thể ức chế, lại có thể kích thích hoạt động thần kinh.

Hay như, đương quy có thể tăng co bóp, lại có thể làm giảm co bóp tử cung. Đó là vì trong đương quy có những hợp chất tan trong nước, có tác dụng kích thích tử cung, khiến tử cung tăng co bóp; đồng thời còn có những hợp chất tinh dầu, có tác dụng làm dịu, khiến tử cung giảm co bóp.

Tang diệp dùng liều nhỏ là thuốc phát hãn (ra mồ hôi), dùng liều lớn lại là thuốc chỉ hãn (cầm mồ hôi).

Lượng thuốc với tác dụng điều tiết hai chiều

Đối với thuốc hóa dược, tác dụng của thuốc nói chung tỷ lệ thuận với lượng thuốc sử dụng, liều dùng càng cao thì tác dụng của thuốc càng mạnh. Đối với thuốc thảo dược thì tình hình phức tạp hơn nhiều. Khi các thành phần trong vị thuốc có tác dụng dược lý tương đồng, theo cùng một hướng, thì cường độ tác dụng của thuốc cũng sẽ tỷ lệ thuận với liều sử dụng. Nhưng khi thuốc bao gồm một số nhóm thành phần, với những tác dụng dược lý trái chiều nhau, tình hình sẽ không còn đơn giản như vậy. Vì với liều lượng sử dụng nhất định, tác dụng của các nhóm thành phần có thể triệt tiêu lẫn nhau. Chính vì vậy, đối với một số thảo dược, thường xuất hiện tình trạng “vật cực tắc phản”: tác dụng của liều nhỏ và liều cao trái ngược nhau.

Thí dụ, tang diệp (lá dâu tằm) dùng liều nhỏ là thuốc phát hãn (làm ra mồ hôi), dùng liều lớn là thuốc chỉ hãn (cầm mồ hôi). Kim ngân và liên kiều, dùng liều nhỏ thì đi lên và có tác dụng giải biểu (giải ngoại cảm); dùng liều lớn thì đi xuống và có tác dụng giải độc. Bạch truật sử dụng liều trung bình có tác kiện vị dụng chỉ tả (mạnh dạ dày, cầm tiêu chảy), nhưng khi sử dụng với liều lớn, tới 30g, thì lại có tác dụng thông tiện. Lộc nhung liều bình thường có tác dụng tăng cường sức co bóp cơ tim, liều lớn ngược lại có tác dụng ức chế cơ tim.

Bào chế

Sau khi bào chế, thảo dược không chỉ thay đổi về tính trạng vật lý mà còn biến đổi về thành phần hóa học và tác dụng cũng thay đổi hẳn. Ví dụ như: hoàng kỳ dùng sống (sinh kỳ) có tác dụng làm tăng huyết áp và kháng lợi niệu (giảm tiểu tiện), sao vàng tác dụng sẽ ngược lại: hạ huyết áp và lợi tiểu tiện. Bồ hoàng dùng sống (sinh bồ hoàng) có tác dụng hoạt huyết, sao cháy đen thì lại chỉ huyết.

Phối ngũ với tác dụng điều tiết hai chiều

Trong mỗi phương thuốc, các vị thuốc được phối hợp với nhau theo quy tắc nhất định, gọi là “phối ngũ”. Phối ngũ khác nhau thì tác dụng của thuốc cũng không giống nhau. Thí dụ, quế chi phối hợp với ma hoàng có tác dụng phát hãn giải biểu (làm ra mồ hôi để giải cảm), phối hợp với bạch thược thì lại có tác dụng hòa doanh chỉ hãn (điều hòa doanh huyết và cầm mồ hôi).

Những thầy thuốc giàu kinh nghiệm thường biết cách phối hợp các vị thuốc với nhau một cách khéo léo, để tạo ra tác dụng điều tiết hai chiều. Thí dụ, phương thuốc “Bán hạ bạch truật thiên ma thang” vừa có thể chữa hoa mắt chóng mặt (huyễn vựng) do huyết áp tăng cao, cũng có thể chữa hoa mắt chóng mặt do huyết áp thấp.

Trạng thái cơ thể

Trạng thái cơ thể là điều kiện quan trọng sản sinh ra tác dụng điều tiết hai chiều của thuốc. Trạng thái bệnh lý khác nhau thì tác dụng của thuốc cũng sẽ khác nhau. Thí dụ, đối với người bị tăng huyết áp, nhân sâm có tác dụng làm hạ huyết áp, nhưng đối với người bị huyết áp thấp, nhân sâm lại có thể làm huyết áp tăng đến mức bình thường. Đối với phụ nữ đang mang thai, ích mẫu thảo có tác dụng ức chế đối với tử cung, nhưng với phụ nữ sau khi đẻ ích mẫu thảo lại có tác dụng gây hưng phấn và làm tử cung tăng co bóp.

Trạng thái sinh lý và bệnh lý khác nhau, hiệu quả của thuốc cũng khác nhau.Thí dụ, trong trạng thái sinh lý bình thường (cơ thể khỏe mạnh), vị thuốc hoàng cầm và vị thuốc xuyên tâm liên không có tác dụng giảm thân nhiệt. Nhưng trong trường hợp đang phát sốt, hai vị thuốc nói trên sẽ phát huy tác dụng như thuốc hạ sốt.

Ứng dụng lâm sàng ngày càng mở rộng

Những năm gần đây, tác dụng điều tiết hai chiều của thảo dược còn được ứng dụng trong điều trị các bệnh miễn dịch, giảm đau trong bệnh ung thư, các bệnh tiêu hóa,... Cùng với thời gian, số lượng các ứng dụng của nguyên lý điều tiết hai chiều sẽ ngày càng nhiều.

Lương y THÁI HƯ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét